Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn là gì? Các công bố khoa học về Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn

Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn là một loại viêm nhiễm nội tâm của mạc nhiễm, là một màng mỏng bao phủ bên trong mắt. Bệnh này xảy ra khi khuẩn hoặc vi khuẩn xâm n...

Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn là một loại viêm nhiễm nội tâm của mạc nhiễm, là một màng mỏng bao phủ bên trong mắt. Bệnh này xảy ra khi khuẩn hoặc vi khuẩn xâm nhập vào mạc nhiễm thông qua dòng máu hoặc bởi việc lan truyền từ các vết thương gần mắt. Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn có thể gây tổn thương nghiêm trọng cho mắt và gây ra các triệu chứng như đỏ, sưng, đau, mờ mắt và giảm tầm nhìn. Điều trị bao gồm việc sử dụng thuốc kháng vi khuẩn hoặc thuốc dùng trực tiếp vào mắt.
Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn là một bệnh nhiễm trùng trong mắt gây tổn thương cho mạc nhiễm - lớp màng mỏng bao bên trong của mắt. Bệnh này thường xảy ra khi khuẩn hoặc vi khuẩn từ các nguồn khác nhau xâm nhập vào mạc nhiễm thông qua cả dòng máu hoặc bằng cách lan truyền từ các vết thương gần mắt.

Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn có thể gây ra các triệu chứng như đỏ, sưng, đau, mờ mắt và giảm tầm nhìn. Bệnh này nếu không được điều trị kịp thời và hiệu quả có thể gây tổn hại nghiêm trọng cho mắt, bao gồm việc suy giảm khả năng nhìn rõ, viêm mạc mãn tính, viêm mạc đục và thậm chí là mất thị lực.

Điều trị viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn thường đòi hỏi sự can thiệp từ bác sĩ chuyên khoa mắt. Điều trị thường bao gồm sử dụng thuốc kháng sinh hoặc thuốc kháng vi khuẩn, và các loại thuốc này có thể được quản lý thông qua uống hoặc dùng trực tiếp vào mắt. Quá trình điều trị đòi hỏi theo dõi chặt chẽ từ bác sĩ để đảm bảo hiệu quả và kiểm tra được mức độ tổn thương của mắt.

Ngoài ra, trong một số trường hợp nghiêm trọng, khi viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn đã gây hủy hoại nghiêm trọng cho mạc nhiễm, có thể phải thực hiện phẫu thuật như cắt bỏ phần mạc nhiễm bị nhiễm trùng và thay thế bằng một môi trường nhân tạo.

Việc chẩn đoán và điều trị viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn nên được thực hiện bởi các bác sĩ chuyên khoa mắt có nhiều kinh nghiệm và được thực hiện sớm để đảm bảo tối ưu hóa khả năng phục hồi và giảm nguy cơ gây hại lâu dài cho mắt.
Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn là một bệnh nhiễm trùng nội tiết hàng không của mạc nhiễm, bao gồm mạc nội tiết và nước ẩm bên dưới. Nó thường xảy ra do sự xâm nhập của các tác nhân gây nhiễm trùng như vi khuẩn, khuẩn hoặc nấm.

Các nguyên nhân gây nên viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn bao gồm:

1. Xâm nhập qua máu: Một số vi khuẩn hoặc khuẩn có thể xâm nhập vào mạc nhiễm thông qua dòng máu từ các nguồn nhiễm trùng khác trong cơ thể như nhiễm trùng đường tiết niệu, viêm phổi, viêm gan, hoặc viêm mô tế bào mềm.

2. Lây lan từ vùng lân cận: Nếu có các vết thương gần mở hoặc tổn thương trong khu vực gần mắt như vết cắt, vết thương bỏng, quầng thâm, nhiễm trùng vùng kín hay các vết cắt sau phẫu thuật, vi khuẩn hoặc khuẩn có thể lây lan vào mạc nhiễm.

Các triệu chứng của viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn có thể bao gồm đỏ, sưng, đau, mờ mắt, nhìn mờ, ánh sáng quá nhạy, ngứa mắt và sản xuất mủ.

Để chẩn đoán viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, bác sĩ thường tiến hành một số thủ tục và xét nghiệm. Các xét nghiệm bao gồm kiểm tra tình trạng mạc nhiễm bằng kính hiển vi, xét nghiệm nước mắt, xét nghiệm mẫu mủ hoặc nước mắt để xác định tác nhân gây nhiễm trùng, xét nghiệm máu để xác định tình trạng tổng quát của bệnh nhân.

Điều trị viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn thường bao gồm sử dụng thuốc kháng sinh hoặc thuốc kháng vi khuẩn như dexamethasone và tobramycin. Các thuốc này có thể được sử dụng dưới dạng giọt mắt, viên nén hoặc tiêm trực tiếp vào mạc nhiễm.

Nếu viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn không đáp ứng tốt với điều trị ban đầu hoặc có biểu hiện nghiêm trọng, có thể cần phẫu thuật để lấy mẫu mô và xác định chính xác nguyên nhân gây nhiễm trùng. Phẫu thuật có thể bao gồm cắt bỏ mạc nhiễm bị nhiễm trùng, tẩy sạch vùng nhiễm trùng và áp dụng thuốc trực tiếp vào mạc nhiễm.

Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn là một bệnh nặng nề và có thể gây hại nghiêm trọng cho mắt, vì vậy việc điều trị kịp thời và chính xác là rất quan trọng để ngăn chặn sự tổn thương mắt và duy trì tầm nhìn.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn":

Khối u myxoma tim bị chẩn đoán nhầm là viêm nội tâm mạc: một trường hợp hội chứng Carney Dịch bởi AI
Journal of Cardiothoracic Surgery - Tập 15 Số 1 - 2020
Tóm tắt Đặt vấn đề

Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn và khối u myxoma tim có những đặc điểm chung bao gồm sốt, thuyên tắc toàn thân và khối u trong tim. Vì lý do này, những bệnh này thường bị chẩn đoán sai cho nhau mặc dù đã thực hiện các nghiên cứu hình ảnh thích hợp. Trong báo cáo này, chúng tôi trình bày một trường hợp nghi ngờ viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn ở một bệnh nhân bị đột quỵ cấp, sốt và khối u nằm cạnh van hai lá.

Trình bày trường hợp

Một bệnh nhân nam 24 tuổi trình bày với sốt tái phát và đột quỵ. Do có tiền sử hội chứng Cushing và khối u di động trong tâm nhĩ trái, viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn được nghi ngờ cao. Bệnh nhân đã được chuyển đến phẫu thuật tim khẩn cấp. Trong quá trình phẫu thuật, siêu âm thực quản trong mổ cho thấy một khối u dài 7 cm gắn vào vách liên nhĩ. Khối u đã được cắt bỏ thông qua rạch lồng ngực nhỏ bên phải và xét nghiệm mô bệnh học xác nhận sự hiện diện của một khối u myxoma. Dựa trên các phát hiện lâm sàng và phân tích di truyền trên, chẩn đoán hội chứng Carney đã được xác nhận.

#viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn #khối u myxoma tim #hội chứng Carney #đột quỵ #thuyên tắc #siêu âm #phẫu thuật tim
TỈ LỆ TỬ VONG VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN TIÊN LƯỢNG Ở NGƯỜI BỆNH VIÊM NỘI TÂM MẠC NHIỄM KHUẨN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 509 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Khảo sát tỉ lệ tử vong và tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến tiên lượng tử vong ở người bệnh viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn (VNTMNK). Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả hồi cứu, tiến cứu được thực hiện trên bệnh nhânđược chẩn đoán VNTMNK theo tiêu chuẩn DUKE cải tiến và điều trị tại bệnh viện Bạch Mai từ tháng 1/2019 đến tháng 2/2021. Chỉ tiêu nghiên cứu: tử vong do mọi nguyên nhân trong bệnh viện và trong 6 tháng. Kết quả: Tuổi trung bình là 49.7 ± 19.3, giới nam 64.5%. Trong quá trình điều trị, phẫu thuật được thực hiện ở 42,9% BN. Tỉ lệ tử vong trong bệnh viện là 10,3% và tỉ lệ tử vong trong 6 tháng là 25,4%. Trong phân tích đa biến, các yếu tố tiên lượng độc lập tử vong là số lượng bạch cầu (OR=1.17; KTC 95% 1.03-1.33), nồng độ ure máu (OR=1.26; KTC 95% 1.04 - 1.53), mức lọc cầu thận (OR=1.03; KTC 95% 1 - 1.07) và điều trị phẫu thuật (OR=0,03; KTC 95% 0,01-0,39).
#viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn #tỉ lệ tử vong #yếu tố tiên lượng
Kết quả điều trị phẫu thuật viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn van tim bên trái tại Bệnh viện Tim Hà Nội
Mục đích: đánh giá kết quả sớm điều trị phẫu thuật viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn (VNTMNK) các van tim bên trái tại Bệnh viện tim Hà Nội. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả hồi cứu tất cả các bệnh nhân VNTMNK van tim bên trái được điều trị phẫu thuật tại Bệnh viện tim Hà Nội từ 3/2015 đến 3/2019. Kết quả: có 56 bệnh nhân VNTMNK van tim bên trái được phẫu thuật; tuổi trung bình là 45,8 ± 16,0; tỉ lệ nam/nữ là 3,3/1. VNTMNK trên van tim nhân tạo ở 9 bênh nhân (16,1%). Tỷ lệ cấy máu dương tính trước mổ 35,7%; vi khuẩn thường gặp là Streptococcus (21,4%). Tỉ lệ tổn thương van hai lá là 48,2%, van động mạch chủ là 32,1% và tổn thương cả hai van là 19,6%.  Phẫu thuật cấp cứu 14,3%; biến chứng sau mổ thường gặp nhất là suy thận 10,7%, tỉ lệ tử vong sớm tại viện là 5,4%. Trong thời gian theo dõi trung bình 36,6 ± 14,2 tháng, có 17,8% trường hợp tái phát VNTMNK. Kết luận: phẫu thuật điều trị VNTMNK van tim bên trái vẫn là một thách thức lớn, tỷ lệ tái phát và tử vong sớm sau mổ cao.
#Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn
Kết quả phẫu thuật bệnh lý van tim do viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn trẻ em tại Bệnh viện Tim Hà Nội
Mục đích: Nhận xét một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng  và đánh giá kết quả sau điều trị phẫu thuật bệnh lý van tim do viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn trẻ em tại Bệnh viện Tim Hà Nội. Phương pháp: Phân tích đánh giá dựa trên số liệu thu thập được từ  bệnh nhân được phẫu thuật và từ kết quả tái khám. Kết quả: Tổng số bệnh nhân là 25, trong đó: Tuổi phẫu thuật trung bình là: 6,56 ± 7.05 năm (Tuổi thấp nhất là  12 tháng, cao nhất là 15 năm). Nam: 14 bệnh nhân (56 %), nữ: 11 bệnh nhân (44 %). Siêu âm trước khi ra viện và sau 3 tháng chúng tôi thấy kết quả gần như  nhau: EF trung bình sau phẫu thuật van hai lá:  57,25 ± 9,68  %;.Chênh áp  trung bình: Van HL: 3,5 ± 1,5mmHg ; qua van ĐMC:  12,5 ± 1,68mmHg. Biến chứng: Tử vong ngay sau mổ: 0 trường hợp (0%); Tử vong muộn: 1 trường hợp tử vong (4%).  Kết luận: Kết quả phẫu thuật bệnh lý van tim do viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn ở trẻ em khả quan. Tỷ lệ tử vong và biến chứng sau mổ thấp.
#Phẫu thuật tim #van hai lá #van động mạch chủ
Xu hướng của viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn ở trẻ em tại Israel với trọng tâm là trẻ dưới 2 tuổi Dịch bởi AI
Pediatric Cardiology - Tập 18 - Trang 419-424 - 2014
Nghiên cứu này đã phân tích hồi cứu đặc điểm của viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn (IE) ở trẻ em dựa trên những tiến bộ gần đây trong chuyên ngành tim mạch nhi khoa. Chúng tôi đã đánh giá 25 bệnh nhân liên tiếp mắc IE từ năm 1980 đến 1991 tại một Trung tâm Y tế Nhi khoa Tầng 3 ở Israel. Tỷ lệ mắc IE đã tăng đáng kể trong nửa sau của giai đoạn nghiên cứu, chủ yếu là do sự gia tăng số lượng bệnh nhân dưới 2 tuổi. Đồng thời, các vi sinh vật gây bệnh đã thay đổi đáng kể, với sự giảm sút của vi khuẩn streptococcus viridans, sự gia tăng của staphylococcus và các nguyên nhân gây IE không phổ biến khác, cùng với sự gia tăng kháng kháng sinh. Trẻ em dưới 2 tuổi, trước đây được coi là những bệnh nhân IE không phổ biến, đã chiếm tới 47% số trường hợp IE trong nửa sau của giai đoạn nghiên cứu. Nhiễm trùng thường xảy ra (78%) ở trẻ em mắc bệnh tim bẩm sinh phức tạp, thường xảy ra sau phẫu thuật tim cấp cứu hoặc phẫu thuật xác định sớm. Trẻ sơ sinh trải qua phẫu thuật dẫn lưu từ hệ tuần hoàn đến phổi, đặc biệt là với việc cấy ghép vật liệu lạ, có nguy cơ cao nhất. IE thường có nguồn gốc từ bệnh viện (56% so với 6%) và cấp tính (56% so với 44%) ở nhóm trẻ nhỏ hơn so với nhóm lớn hơn và thường thiếu sự trình bày lâm sàng điển hình của bệnh. Ngoài ra, các tác nhân gây bệnh không phổ biến được ghi nhận thường xuyên hơn (67% so với 13%; p= 0.009) ở nhóm trẻ nhỏ hơn. Nghiên cứu cho thấy sự gia tăng đáng kể về IE ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ với những tình trạng nền, biểu hiện lâm sàng và phát hiện vi sinh đặc trưng, tất cả đều cần được xem xét hiện nay cho việc chẩn đoán và điều trị IE nhi khoa.
Báo cáo một trường hợp: Viêm nội tâm mạc động mạch phổi ở bệnh nhân còn ống động mạch
Tổng quan: Viêm nội tâm mạc tim phải thường hiếm gặp, chỉ chiếm 5-10% trong tất cả các trường hợp viêm nội tâm mạc nhiễm trùng.Tổn thương có thể chỉ ở tại van phổi hoặc kèm theo các van khác. Chẩn đoán kịp thời bằng siêu âm tim qua thành ngực, kháng sinh tích cực ngay từ đầu và phẫu thuật lấy khối sùi cho viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn giúp ngăn ngừa nguy cơ suy đa tạng và thuyên tắc phổi gây tử vong. Báo cáo ca bệnh: Bệnh nhân nữ 38 tuổi tiền sử khỏe mạnh, đẻ thường tại bệnh viện huyện cách 03 tháng. Vào viện vì sốt kèm khó thở liên tục cách vào viện 1 tháng, siêu âm tim phát hiện: khối sùi động mạch phổi trái trên nền còn ống động mạch. Chụp cắt lớp vi tính cho thấy hình ảnh khối hỗn hợp âm ở động mạch phổi trái. Bệnh nhân được phẫu thuật lấy cục sùi làm xét nghiệm và đóng ống động mạch. Sau mổ bệnh nhân ổn định sau mổ 2 tuần ra viện. Kết luận: Tổn thương sùi động mạch phổi trên nền còn ống động mạch là một tổn thương hiếm gặp và có khả năng gây tử vong cao. Chẩn đoán nên được xem xét ở bất kỳ bệnh nhân nào có tình trạng sốt, nhiễm trùng có kèm theo bệnh lý tim bẩm sinh. Việc phẫu thuật lấy khối sùi kèm điều trị kháng sinh tích cực nên được thực hiện cùng nhau để tăng hiệu quả điều trị.
#Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn #động mạch phổi #còn ống động mạch
Nhầm lẫn trong chẩn đoán bệnh Behçet với sốt kéo dài không rõ nguyên nhân và cảm giác lạnh sau phẫu thuật cắt u tim Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 32 - Trang 2177-2179 - 2010
Bệnh Behçet liên quan đến tim rất hiếm gặp. Đôi khi, bệnh có thể bị chẩn đoán nhầm là viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn khi xuất hiện sốt kéo dài và cảm giác lạnh. Chúng tôi báo cáo một trường hợp sốt kéo dài không rõ nguyên nhân sau khi phẫu thuật cắt bỏ một khối u tim. Về lâm sàng và bệnh lý, chẩn đoán viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn có thể xảy ra nhưng kháng sinh không có tác dụng. Sau khi xem xét trường hợp, chẩn đoán bệnh Behçet được thiết lập và bệnh nhân được điều trị bằng glucocorticoid, dẫn đến việc hồi phục.
#Bệnh Behçet #viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn #sốt kéo dài #khối u tim #glucocorticoid
Những khác biệt giữa viêm nội tâm mạc do Streptococcus bovis và Enterococcus spp. và mối liên hệ của chúng với ung thư đại tràng Dịch bởi AI
European Journal of Clinical Microbiology and Infectious Diseases - Tập 34 - Trang 1657-1665 - 2015
Nhóm Streptococcus bovis và Enterococcus spp. có những đặc điểm sinh lý và môi trường sống trong ruột giống nhau. Cả hai đều liên quan đến viêm nội tâm mạc và khối u đại trực tràng. Chúng tôi đã nghiên cứu tất cả các trường hợp viêm nội tâm mạc được chẩn đoán từ năm 1988 đến 2014 tại trung tâm của chúng tôi, nguyên nhân do S. bovis (109 trường hợp, chiếm 48.8 % bệnh cảnh nhiễm khuẩn huyết) và do Enterococcus spp. (36 trường hợp, chiếm 3.4 % bệnh cảnh nhiễm khuẩn huyết). Bệnh nhân được theo dõi cho đến khi qua đời hoặc trong quá trình theo dõi dài hạn, nhằm loại trừ sự hiện diện của khối u đại trực tràng kèm theo. So với 36 trường hợp viêm nội tâm mạc do enterococci, 109 trường hợp viêm nội tâm mạc do S. bovis (SbIE) cho thấy: tỷ lệ nam giới cao hơn (91 % so với 72 %, p=0.005), tổn thương nhiều van (28 % so với 6 %, p=0.004), biến chứng tắc mạch (44 so với 22 %, p=0.02) và ung thư đại trực tràng (64 % so với 25 %, p=0.001). SbIE cũng cho thấy ít bệnh đồng mắc hơn (32 % so với 58 %, p=0.005) và ít gặp nguồn nhiễm trùng tiết niệu hơn (0 so với 25 %, p=0.001) cùng với nhiễm trùng liên quan đến chăm sóc sức khỏe (2 so với 44 %, p=0.001). Tổng cộng có 123 bệnh nhân được theo dõi trong một thời gian kéo dài (trung bình: 65.9 ± 57.5 tháng). Trong quá trình theo dõi, 6 trong 28 (21 %) trường hợp viêm nội tâm mạc do enterococci và 43 trong 95 (45.2 %, p=0.01) trường hợp SbIE đã phát triển khối u đại trực tràng mới. Những khối u này xuất hiện trung bình 60.4 tháng sau (khoảng từ 12-181 tháng). Trong số 43 trường hợp SbIE và khối u đại trực tràng, 12 trường hợp đã có kết quả nội soi đại tràng bình thường trước đó và 31 trường hợp đã có khối u đại trực tràng trước đó và phát triển một khối u thứ hai. Các trường hợp SbIE có những sự khác biệt quan trọng với những trường hợp do Enterococcus spp. gây ra. Nội soi đại tràng phải được thực hiện bắt buộc cả trong đánh giá ban đầu của SbIE và trong quá trình theo dõi.
#Streptococcus bovis #Enterococcus #viêm nội tâm mạc #ung thư đại trực tràng #nhiễm khuẩn huyết
Giá trị của siêu âm tim 3D qua thực quản trong đánh giá tổn thương tim ở bệnh nhân viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn-đối chiếu với kết quả phẫu thuật
Mục tiêu: Đối chiếu kết quả đánh giá tổn thương tim ở các bệnh nhân (BN) viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn (VNTMNK) bằng siêu âm tim 2D qua thành ngực (2DTTE), siêu âm tim 2D qua thực quản (2DTEE) và siêu âm tim 3D qua thực quản (3DTEE) với tiêu chuẩn vàng là kết quả phẫu thuật. Đối tượng và phương pháp: Trong thời gian từ 7/2019 đến 9/2020, tại Viện Tim mạch Việt Nam, Bệnh viện Bạch Mai, 40 BN được chẩn đoán VNTMNK được tiến hành 2DTTE, 2DTEE và 3DTEE, trong đó 27 BN được tiến hành phẫu thuật tim dưới tuần hoàn ngoài cơ thể, sau đó đối chiếu kết quả siêu âm với kết quả trong phẫu thuật. Kết quả: 3DTEE có độ nhạy phát hiện tổn thương sùi 96,2%, độ đặc hiệu 94,5%, độ phù hợp cao khi đối chiếu với phẫu thuật, Kappa: 0,889. Đối với tổn thương áp xe, độ nhạy 77,78%, độ đặc hiệu 94,44%, độ phù hợp của 3DTEE khá khi đối chiếu với phẫu thuật, Kappa: 0,743. Đối với tổn thương thủng rách van tim, 3DTEE có độ nhạy 72,7%, độ đặc hiệu 93%, độ phù hợp khá khi đối chiếu với phẫu thuật, Kappa: 0,658. Trong đánh giá tổn thương đứt dây chằng, 3D TEE có độ nhạy 100%, độ đặc hiệu 100% , độ phù hợp cao khi so sánh với phẫu thuật, Kappa: 1. Đa số các tổn thương được phát hiện trên 3DTEE có độ nhạy, độ đặc hiệu, Kappa cao hơn 2DTTE và 2DTEE khi đối chiếu với phẫu thuật. Kết luận: Siêu âm tim 3D qua thực quản giúp làm gia tăng giá trị chẩn đoán, cung cấp nhiều thông tin trong việc đánh giá, phát hiện các tổn thương trong tim ở bệnh nhân VNTMNK. Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị dự đoán dương tính, âm tính phát hiện các tổn thương VNTMNK cao hơn so với siêu âm tim 2D qua thành ngực và siêu âm tim 2D qua thực quản.
#Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn #siêu âm tim qua thành ngực #siêu âm tim 2D qua thực quản #siêu âm tim 3D qua thực quản
NGHIÊN CỨU BIẾN CỐ CHÍNH NGẮN HẠN VÀ TRUNG HẠN CỦA VIÊM NỘI TÂM MẠC NHIỄM KHUẨN VAN NHÂN TẠO
 Mục tiêu: Xác định tỷ lệ các biến cố chính ngắn hạn, và sau một năm của bệnh nhân Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn van nhân tạo: suy tim, tai biến mạch máu não, mổ lại và tử vong. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả chùm ca bệnh được thực hiện trên 64 bệnh nhân có đầy đủ hồ sơ bệnh án viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn van nhân tạo được chẩn đoán xác định theo tiêu chuẩn mô bệnh học hoặc tiêu chuẩn DUKE sửa đổi tại Viện Tim mạch Việt nam, Bệnh viện Tim Hà nội từ tháng 1/2014 đến tháng 6/2022 Kết quả: Nghiên cứu mô tả 64 bệnh nhân nhập viện vì VNTMNKVNT, chúng tôi rút ra các kết luận sau: tỷ lệ suy tim ngắn hạn và trong 1 năm đầu là: 67.2% và 17.6%, tỷ lệ tai biến mạch máu não ngắn hạn và trong 1 năm là: 6.4% và 3.9%. Có 53.1% bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật lại và 35.9% bệnh nhân phẫu thuật. Tỷ lệ phẫu thuật lại trong 1 năm sau ra viện: 17.6%. Tỷ lệ tử vong ngắn hạn và trong 1 năm sau ra viện là 20.3%, và 17.6%. Kết luận: các biến cố chính ngắn hạn, và sau một năm của bệnh nhân Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn van nhân tạo: suy tim (67.2% và 17.6%), tai biến mạch máu não (6.4% và 3.9%), mổ lại (35.9% và 17.6%), tử vong (20.3%, và 17.6%).
#Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn #van nhân tạo #biến cố
Tổng số: 13   
  • 1
  • 2