Scholar Hub/Chủ đề/#viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn/
Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn là một loại viêm nhiễm nội tâm của mạc nhiễm, là một màng mỏng bao phủ bên trong mắt. Bệnh này xảy ra khi khuẩn hoặc vi khuẩn xâm n...
Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn là một loại viêm nhiễm nội tâm của mạc nhiễm, là một màng mỏng bao phủ bên trong mắt. Bệnh này xảy ra khi khuẩn hoặc vi khuẩn xâm nhập vào mạc nhiễm thông qua dòng máu hoặc bởi việc lan truyền từ các vết thương gần mắt. Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn có thể gây tổn thương nghiêm trọng cho mắt và gây ra các triệu chứng như đỏ, sưng, đau, mờ mắt và giảm tầm nhìn. Điều trị bao gồm việc sử dụng thuốc kháng vi khuẩn hoặc thuốc dùng trực tiếp vào mắt.
Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn là một bệnh nhiễm trùng trong mắt gây tổn thương cho mạc nhiễm - lớp màng mỏng bao bên trong của mắt. Bệnh này thường xảy ra khi khuẩn hoặc vi khuẩn từ các nguồn khác nhau xâm nhập vào mạc nhiễm thông qua cả dòng máu hoặc bằng cách lan truyền từ các vết thương gần mắt.
Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn có thể gây ra các triệu chứng như đỏ, sưng, đau, mờ mắt và giảm tầm nhìn. Bệnh này nếu không được điều trị kịp thời và hiệu quả có thể gây tổn hại nghiêm trọng cho mắt, bao gồm việc suy giảm khả năng nhìn rõ, viêm mạc mãn tính, viêm mạc đục và thậm chí là mất thị lực.
Điều trị viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn thường đòi hỏi sự can thiệp từ bác sĩ chuyên khoa mắt. Điều trị thường bao gồm sử dụng thuốc kháng sinh hoặc thuốc kháng vi khuẩn, và các loại thuốc này có thể được quản lý thông qua uống hoặc dùng trực tiếp vào mắt. Quá trình điều trị đòi hỏi theo dõi chặt chẽ từ bác sĩ để đảm bảo hiệu quả và kiểm tra được mức độ tổn thương của mắt.
Ngoài ra, trong một số trường hợp nghiêm trọng, khi viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn đã gây hủy hoại nghiêm trọng cho mạc nhiễm, có thể phải thực hiện phẫu thuật như cắt bỏ phần mạc nhiễm bị nhiễm trùng và thay thế bằng một môi trường nhân tạo.
Việc chẩn đoán và điều trị viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn nên được thực hiện bởi các bác sĩ chuyên khoa mắt có nhiều kinh nghiệm và được thực hiện sớm để đảm bảo tối ưu hóa khả năng phục hồi và giảm nguy cơ gây hại lâu dài cho mắt.
Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn là một bệnh nhiễm trùng nội tiết hàng không của mạc nhiễm, bao gồm mạc nội tiết và nước ẩm bên dưới. Nó thường xảy ra do sự xâm nhập của các tác nhân gây nhiễm trùng như vi khuẩn, khuẩn hoặc nấm.
Các nguyên nhân gây nên viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn bao gồm:
1. Xâm nhập qua máu: Một số vi khuẩn hoặc khuẩn có thể xâm nhập vào mạc nhiễm thông qua dòng máu từ các nguồn nhiễm trùng khác trong cơ thể như nhiễm trùng đường tiết niệu, viêm phổi, viêm gan, hoặc viêm mô tế bào mềm.
2. Lây lan từ vùng lân cận: Nếu có các vết thương gần mở hoặc tổn thương trong khu vực gần mắt như vết cắt, vết thương bỏng, quầng thâm, nhiễm trùng vùng kín hay các vết cắt sau phẫu thuật, vi khuẩn hoặc khuẩn có thể lây lan vào mạc nhiễm.
Các triệu chứng của viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn có thể bao gồm đỏ, sưng, đau, mờ mắt, nhìn mờ, ánh sáng quá nhạy, ngứa mắt và sản xuất mủ.
Để chẩn đoán viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, bác sĩ thường tiến hành một số thủ tục và xét nghiệm. Các xét nghiệm bao gồm kiểm tra tình trạng mạc nhiễm bằng kính hiển vi, xét nghiệm nước mắt, xét nghiệm mẫu mủ hoặc nước mắt để xác định tác nhân gây nhiễm trùng, xét nghiệm máu để xác định tình trạng tổng quát của bệnh nhân.
Điều trị viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn thường bao gồm sử dụng thuốc kháng sinh hoặc thuốc kháng vi khuẩn như dexamethasone và tobramycin. Các thuốc này có thể được sử dụng dưới dạng giọt mắt, viên nén hoặc tiêm trực tiếp vào mạc nhiễm.
Nếu viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn không đáp ứng tốt với điều trị ban đầu hoặc có biểu hiện nghiêm trọng, có thể cần phẫu thuật để lấy mẫu mô và xác định chính xác nguyên nhân gây nhiễm trùng. Phẫu thuật có thể bao gồm cắt bỏ mạc nhiễm bị nhiễm trùng, tẩy sạch vùng nhiễm trùng và áp dụng thuốc trực tiếp vào mạc nhiễm.
Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn là một bệnh nặng nề và có thể gây hại nghiêm trọng cho mắt, vì vậy việc điều trị kịp thời và chính xác là rất quan trọng để ngăn chặn sự tổn thương mắt và duy trì tầm nhìn.
TỈ LỆ TỬ VONG VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN TIÊN LƯỢNG Ở NGƯỜI BỆNH VIÊM NỘI TÂM MẠC NHIỄM KHUẨNMục tiêu: Khảo sát tỉ lệ tử vong và tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến tiên lượng tử vong ở người bệnh viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn (VNTMNK). Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả hồi cứu, tiến cứu được thực hiện trên bệnh nhânđược chẩn đoán VNTMNK theo tiêu chuẩn DUKE cải tiến và điều trị tại bệnh viện Bạch Mai từ tháng 1/2019 đến tháng 2/2021. Chỉ tiêu nghiên cứu: tử vong do mọi nguyên nhân trong bệnh viện và trong 6 tháng. Kết quả: Tuổi trung bình là 49.7 ± 19.3, giới nam 64.5%. Trong quá trình điều trị, phẫu thuật được thực hiện ở 42,9% BN. Tỉ lệ tử vong trong bệnh viện là 10,3% và tỉ lệ tử vong trong 6 tháng là 25,4%. Trong phân tích đa biến, các yếu tố tiên lượng độc lập tử vong là số lượng bạch cầu (OR=1.17; KTC 95% 1.03-1.33), nồng độ ure máu (OR=1.26; KTC 95% 1.04 - 1.53), mức lọc cầu thận (OR=1.03; KTC 95% 1 - 1.07) và điều trị phẫu thuật (OR=0,03; KTC 95% 0,01-0,39).
#viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn #tỉ lệ tử vong #yếu tố tiên lượng
Kết quả điều trị phẫu thuật viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn van tim bên trái tại Bệnh viện Tim Hà NộiMục đích: đánh giá kết quả sớm điều trị phẫu thuật viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn (VNTMNK) các van tim bên trái tại Bệnh viện tim Hà Nội.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả hồi cứu tất cả các bệnh nhân VNTMNK van tim bên trái được điều trị phẫu thuật tại Bệnh viện tim Hà Nội từ 3/2015 đến 3/2019.
Kết quả: có 56 bệnh nhân VNTMNK van tim bên trái được phẫu thuật; tuổi trung bình là 45,8 ± 16,0; tỉ lệ nam/nữ là 3,3/1. VNTMNK trên van tim nhân tạo ở 9 bênh nhân (16,1%). Tỷ lệ cấy máu dương tính trước mổ 35,7%; vi khuẩn thường gặp là Streptococcus (21,4%). Tỉ lệ tổn thương van hai lá là 48,2%, van động mạch chủ là 32,1% và tổn thương cả hai van là 19,6%. Phẫu thuật cấp cứu 14,3%; biến chứng sau mổ thường gặp nhất là suy thận 10,7%, tỉ lệ tử vong sớm tại viện là 5,4%. Trong thời gian theo dõi trung bình 36,6 ± 14,2 tháng, có 17,8% trường hợp tái phát VNTMNK.
Kết luận: phẫu thuật điều trị VNTMNK van tim bên trái vẫn là một thách thức lớn, tỷ lệ tái phát và tử vong sớm sau mổ cao.
#Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn
Kết quả phẫu thuật bệnh lý van tim do viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn trẻ em tại Bệnh viện Tim Hà NộiMục đích: Nhận xét một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá kết quả sau điều trị phẫu thuật bệnh lý van tim do viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn trẻ em tại Bệnh viện Tim Hà Nội.
Phương pháp: Phân tích đánh giá dựa trên số liệu thu thập được từ bệnh nhân được phẫu thuật và từ kết quả tái khám.
Kết quả: Tổng số bệnh nhân là 25, trong đó: Tuổi phẫu thuật trung bình là: 6,56 ± 7.05 năm (Tuổi thấp nhất là 12 tháng, cao nhất là 15 năm). Nam: 14 bệnh nhân (56 %), nữ: 11 bệnh nhân (44 %). Siêu âm trước khi ra viện và sau 3 tháng chúng tôi thấy kết quả gần như nhau: EF trung bình sau phẫu thuật van hai lá: 57,25 ± 9,68 %;.Chênh áp trung bình: Van HL: 3,5 ± 1,5mmHg ; qua van ĐMC: 12,5 ± 1,68mmHg. Biến chứng: Tử vong ngay sau mổ: 0 trường hợp (0%); Tử vong muộn: 1 trường hợp tử vong (4%).
Kết luận: Kết quả phẫu thuật bệnh lý van tim do viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn ở trẻ em khả quan. Tỷ lệ tử vong và biến chứng sau mổ thấp.
#Phẫu thuật tim #van hai lá #van động mạch chủ
Báo cáo một trường hợp: Viêm nội tâm mạc động mạch phổi ở bệnh nhân còn ống động mạchTổng quan: Viêm nội tâm mạc tim phải thường hiếm gặp, chỉ chiếm 5-10% trong tất cả các trường hợp viêm nội tâm mạc nhiễm trùng.Tổn thương có thể chỉ ở tại van phổi hoặc kèm theo các van khác. Chẩn đoán kịp thời bằng siêu âm tim qua thành ngực, kháng sinh tích cực ngay từ đầu và phẫu thuật lấy khối sùi cho viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn giúp ngăn ngừa nguy cơ suy đa tạng và thuyên tắc phổi gây tử vong.
Báo cáo ca bệnh: Bệnh nhân nữ 38 tuổi tiền sử khỏe mạnh, đẻ thường tại bệnh viện huyện cách 03 tháng. Vào viện vì sốt kèm khó thở liên tục cách vào viện 1 tháng, siêu âm tim phát hiện: khối sùi động mạch phổi trái trên nền còn ống động mạch. Chụp cắt lớp vi tính cho thấy hình ảnh khối hỗn hợp âm ở động mạch phổi trái. Bệnh nhân được phẫu thuật lấy cục sùi làm xét nghiệm và đóng ống động mạch. Sau mổ bệnh nhân ổn định sau mổ 2 tuần ra viện.
Kết luận: Tổn thương sùi động mạch phổi trên nền còn ống động mạch là một tổn thương hiếm gặp và có khả năng gây tử vong cao. Chẩn đoán nên được xem xét ở bất kỳ bệnh nhân nào có tình trạng sốt, nhiễm trùng có kèm theo bệnh lý tim bẩm sinh. Việc phẫu thuật lấy khối sùi kèm điều trị kháng sinh tích cực nên được thực hiện cùng nhau để tăng hiệu quả điều trị.
#Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn #động mạch phổi #còn ống động mạch
NGHIÊN CỨU BIẾN CỐ CHÍNH NGẮN HẠN VÀ TRUNG HẠN CỦA VIÊM NỘI TÂM MẠC NHIỄM KHUẨN VAN NHÂN TẠO Mục tiêu: Xác định tỷ lệ các biến cố chính ngắn hạn, và sau một năm của bệnh nhân Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn van nhân tạo: suy tim, tai biến mạch máu não, mổ lại và tử vong. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả chùm ca bệnh được thực hiện trên 64 bệnh nhân có đầy đủ hồ sơ bệnh án viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn van nhân tạo được chẩn đoán xác định theo tiêu chuẩn mô bệnh học hoặc tiêu chuẩn DUKE sửa đổi tại Viện Tim mạch Việt nam, Bệnh viện Tim Hà nội từ tháng 1/2014 đến tháng 6/2022 Kết quả: Nghiên cứu mô tả 64 bệnh nhân nhập viện vì VNTMNKVNT, chúng tôi rút ra các kết luận sau: tỷ lệ suy tim ngắn hạn và trong 1 năm đầu là: 67.2% và 17.6%, tỷ lệ tai biến mạch máu não ngắn hạn và trong 1 năm là: 6.4% và 3.9%. Có 53.1% bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật lại và 35.9% bệnh nhân phẫu thuật. Tỷ lệ phẫu thuật lại trong 1 năm sau ra viện: 17.6%. Tỷ lệ tử vong ngắn hạn và trong 1 năm sau ra viện là 20.3%, và 17.6%. Kết luận: các biến cố chính ngắn hạn, và sau một năm của bệnh nhân Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn van nhân tạo: suy tim (67.2% và 17.6%), tai biến mạch máu não (6.4% và 3.9%), mổ lại (35.9% và 17.6%), tử vong (20.3%, và 17.6%).
#Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn #van nhân tạo #biến cố
Kết quả sớm và trung hạn (1 năm) của phẫu thuật viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn trên van tự nhiên tại Viện Tim mạch Bệnh viện Bạch MaiĐặt vấn đề: khoảng 50% các bệnh nhân viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn (VNTMNK) cần phẫu thuật, tuy nhiên tỷ lệ tử vong và các biến chứng còn cao trong cả giai đoạn ngay sau mổ cũng như thời gian theo dõi sau mổ.
Mục tiêu nghiên cứu: Tìm hiểu tỷ lệ tử vong các biến chứng ở bệnh nhân viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn trong giai đoạn sớm (30 ngày đầu) và tới thời điểm 1 năm sau mổ.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 66 BN VNTMNK van tự nhiên được phẫu thuật tại Viện Tim mạch BV Bạch Mai, theo dõi đến thời điểm 1 năm sau mổ. Phương pháp nghiên cứu: hồi cứu, cắt ngang mô tả kết hợp với theo dõi dọc.
Kết quả: Tỉ lệ tử vong trong 30 ngày đầu là 9,1 % , tỷ lệ tử vong thêm sau thời gian 1 năm là 1,7%, tỷ lệ tử vong cộng dồn đến thời điểm 1 năm sau mổ là 10,6%, tỷ lệ sống còn là 89,4%. VNTMNK tái phát 1,5%. Các biến chứng hay gặp nhất trong giai đoạn sớm sau mổ:suy thận (9,1%) và tràn dịch màng phổi (9,1%), viêm phổi (6,1%) tai biến mạch não (3%) và block nhĩ thất cấp 3 (1,5%). Theo dõi đến 1 năm có 33,3 % BN phải tái nhập viện do các biến cố về tim mạch.
#viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn #van tự nhiên #phẫu thuật #bệnh van tim
Clinical features, laboratory tests and treatment outcomes of staphylococcal infective endocarditis at the University Medical Center Ho Chi Minh CityMục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn do tụ cầu. Đối tượng và phương pháp: Mô tả tiến cứu, theo dõi kết cục tại thời điểm xuất viện những bệnh nhân được xác định viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn do tụ cầu tại Bệnh viện Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian từ 1/10/2021 đến 20/5/2024. Kết quả: 18 bệnh nhân với tuổi trung bình là 54 ± 17,49, nam giới chiếm 61,1%. Hai bệnh đi kèm thường gặp nhất là tăng huyết áp (55,6%) và bệnh van tim (44,4%). Sốt là triệu chứng thường gặp nhất (88,9%), kế đến là nhóm triệu chứng thần kinh (chóng mặt, yếu liệt, đau đầu). Cấy máu dương tính với Staphylococcus aureus là 88,89%. Sùi gặp ở tất cả các bệnh nhân với kích thước trung bình là 13,78 ± 5,72 gây nhiều biến chứng tại tim và ngoài tim. Tỉ lệ tử vong nội viện là 22,2%. Kết luận: Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn do tụ cầu có nhiều triệu chứng ngoài tim không đặc hiệu và khó chẩn đoán. Siêu âm tim cho phép chẩn đoán sớm với tỉ lệ tìm thấy sùi cao và đánh giá các tổn thương kèm theo. Tụ cầu vàng là tác nhân chính gây bệnh. Bệnh có nhiều biến chứng và tỉ lệ tử vong cao.
#Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn #sùi #áp xe #tụ cầu
Giá trị của siêu âm tim 3D qua thực quản trong đánh giá tổn thương tim ở bệnh nhân viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn-đối chiếu với kết quả phẫu thuậtMục tiêu: Đối chiếu kết quả đánh giá tổn thương tim ở các bệnh nhân (BN) viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn (VNTMNK) bằng siêu âm tim 2D qua thành ngực (2DTTE), siêu âm tim 2D qua thực quản (2DTEE) và siêu âm tim 3D qua thực quản (3DTEE) với tiêu chuẩn vàng là kết quả phẫu thuật. Đối tượng và phương pháp: Trong thời gian từ 7/2019 đến 9/2020, tại Viện Tim mạch Việt Nam, Bệnh viện Bạch Mai, 40 BN được chẩn đoán VNTMNK được tiến hành 2DTTE, 2DTEE và 3DTEE, trong đó 27 BN được tiến hành phẫu thuật tim dưới tuần hoàn ngoài cơ thể, sau đó đối chiếu kết quả siêu âm với kết quả trong phẫu thuật. Kết quả: 3DTEE có độ nhạy phát hiện tổn thương sùi 96,2%, độ đặc hiệu 94,5%, độ phù hợp cao khi đối chiếu với phẫu thuật, Kappa: 0,889. Đối với tổn thương áp xe, độ nhạy 77,78%, độ đặc hiệu 94,44%, độ phù hợp của 3DTEE khá khi đối chiếu với phẫu thuật, Kappa: 0,743. Đối với tổn thương thủng rách van tim, 3DTEE có độ nhạy 72,7%, độ đặc hiệu 93%, độ phù hợp khá khi đối chiếu với phẫu thuật, Kappa: 0,658. Trong đánh giá tổn thương đứt dây chằng, 3D TEE có độ nhạy 100%, độ đặc hiệu 100% , độ phù hợp cao khi so sánh với phẫu thuật, Kappa: 1. Đa số các tổn thương được phát hiện trên 3DTEE có độ nhạy, độ đặc hiệu, Kappa cao hơn 2DTTE và 2DTEE khi đối chiếu với phẫu thuật. Kết luận: Siêu âm tim 3D qua thực quản giúp làm gia tăng giá trị chẩn đoán, cung cấp nhiều thông tin trong việc đánh giá, phát hiện các tổn thương trong tim ở bệnh nhân VNTMNK. Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị dự đoán dương tính, âm tính phát hiện các tổn thương VNTMNK cao hơn so với siêu âm tim 2D qua thành ngực và siêu âm tim 2D qua thực quản.
#Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn #siêu âm tim qua thành ngực #siêu âm tim 2D qua thực quản #siêu âm tim 3D qua thực quản
THƯƠNG TỔN TIM TRONG VIÊM NỘI TÂM MẠC NHIỄM KHUẨN VÀ THÁI ĐỘ ĐIỀU TRỊ NGOẠI KHOAĐặt vấn đề: Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn gây ra nhiều biến chứng nặng nề, đòi hỏi phải can thiệp ngoại khoa sớm, nhưng kết quả còn rất hạn chế. Tuy thái độ điều trị phụ thuộc vào nhiều yếu tố, song việc tìm hiểu các quan điểm khác nhau là cần thiết để nâng cao hiệu quả điều trị.
Phương pháp: Báo cáo tổng quan dựa vào y văn và mô tả hồi cứu trên một số bệnh nhân viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn tại bệnh viện Việt Đức từ 1/2009 đến 9 /2010.
Kết quả: Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn chiếm khoảng 3-5 ca / 100.000 người / năm; và 1% / năm sau mổ thay van tim. Tỷ lệ tử vong vẫn rất cao (20 – 25%). Có nhiều chủng vi khuẩn khác nhau, hàng đầu là cầu khuẩn gram(+) (thế giới) và liên cầu (Việt Nam), tỷ lệ cấy máu (-) cao (20 – 60%). Tổn thương giải phẫu tại tim rất đa dạng. Điều trị ngoại khoa sau khi kiểm soát được nhiễm khuẩn có kết quả tốt hơn nhiều (thành công 60 – 80%) so với phẫu thuật cấp cứu (thất bại > 70%). Cần điều trị kháng sinh đủliều sau mổ (6 – 8 tuần).
Kết luận: Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn vẫn đặt ra rất nhiều thách thức cho điều trị ngoại khoa, nhất là các thương tổn cần phải mổ sớm. Bên cạnh phác đồ điều trị chung, cần cân nhắctừng trường hợp. Nên cố gắng kiểm soát được nhiễm khuẩn trước mổ.
#Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn #nhiễm trùng sau mổ tim hở #Việt Đức.